Ôn tập bài Việt Bắc
Những bài viết hay nhất
ÔN TẬP BÀI THƠ VIỆT BẮC - TỐ HỮU
A) Hoàn cảnh ra đời:
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.
- Tháng 10 – 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử đó, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để nói lên tình cảm thắm thiết với Việt Bắc – quê hương của cách mạng. Việt Bắc rất tiêu biểu cho thể tài thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
[IMG]
B) Giá trị tư tưởng:
Việt Bắc thể hiện tình cảm của Tố Hữu đồng thời tiêu biểu cho tình cảm cao đẹp của những người kháng chiến đối với căn cứ Việt Bắc, đối với nhân dân và Đất nước.
Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung giữa những con người cách mạng kháng chiến (người miền xuôi) với Việt Bắc và giữa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, thể hiện truyền thống đạo lí thủy chung, giàu ân nghĩa của dân tộc ta.
C) kiến thức cơ bản.
(1) Đoạn 1 (Mình về mình có nhớ ta.. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay)
Giống như những khúc hát giã bạn "người ơi người ở đừng về" trong đêm hội, ở đây người cất lên tiếng nói đầu tiên trong cuộc chia tay là người ở lại, gợi nhắc về những kỉ niệm gắn bó suốt mười lăm năm: Mình về mình có nhớ ta.. thiết tha mặn nồng
Giọng cất lên là giọng của yêu thương trìu mến, nhung nhớ, chia xa. Tất cả nhắc gọi về kỉ niệm giống như vô vàn những cuộc chia tay muôn thuở xưa nay. Có bao nhiêu điều cụ thể từng chia sẻ, gắn bó đã trôi qua suốt Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.. Cụm từ thiết tha mặn nồng dường như không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn gói trọn cả những sẻ chia sóng gió thác ghềnh làm nên cái nặng sâu bền chặt của tình nghĩa vợ chồng. Thời gian mười lăm năm được đánh dấu từ mốc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, hòa bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa cách mạng vững chắc.
Chuyện nghĩa tình cách mạng lớn lao đầy màu sắc chính trị như vậy đã hóa thân tự nhiên vào câu chuyện tình cảm lứa đôi bền chặt, để mười lăm năm ấy trở thành thiết tha mặn nồng dìu dặt và quyến luyến lòng người.
Đúng ở thời khắc chia tay, mối bận tâm, điều muốn nhắn gửi, cũng là điều muốn dò đón, khắc sâu chính là mối băn khoăn Có nhớ không? Trào lên qua câu chữ: Mình về mình có nhớ không
Bảo là hỏi tu từ, hỏi để gợi nhắc, gợi nhớ cũng đúng. Nhưng bảo là mối quan tâm thực sự tha thiết đang chờ đợi câu trả lời có lẽ đúng hơn. Có nhớ không? Trở thành mối quan tâm đau đáu riết róng vì thói thường gian khổ thì bền chặt, sung sướng hạnh phúc rất dễ làm con người quên đi những ngọt bùi cay đắng đã nếm trải. Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Bốn câu thơ trên chính là khúc dạo đầu của cảm xúc chia tay để từ đó biết bao điều chưa nói sẽ được thổ lộ giãi tỏ tâm tình. Lời hỏi chỉ là cái cớ gợi dẫn để trào tuôn mạch cảm xúc nhớ thương trong lòng người lên đường.
Bốn câu thơ cuối của đoạn (lời người đi) đã tái hiện trước mắt người đọc một cuộc chia tay kẻ ở người đi đầy bâng khuâng, lưu luyến: Tiếng ai tha thiết bên cồn.. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Sắc áo chàm chất phát, đậm đà, quen thuộc gắn bó với đồng bào Việt Bắc giờ đây hiện lên như một điểm nhớ thân thương trong lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ của nhà thơ. Tất cả đã làm trào dâng cảm xúc trong lòng người lên đường.
Người ra đi như đồng vọng thiết tha với cảm xúc thiết tha của người ở lại nên ngập ngừng không nỡ bước chân: Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Các từ láy bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết hài hòa đồng điệu với nhau để thể hiện cảm xúc, vừa lưu luyến nhớ thương, vừa mong ngóng nôn nao.
Nhà thơ đã sử dụng thành công nhịp ngắt linh hoạt của thơ lục bát để gợi ra khung cảnh và ấn tượng, cảm xúc cuộc chia tay: Áo chàm đưa/ buổi phân li; Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay.. Như hiển hiện sau câu chữ là động thái trữ tình: Người đi kẻ ở tay trong tay, những khoảng ngừng lặng không nói nên lời bởi bộn bề cảm xúc, biết nói gì đây bởi quá nhiều điều để nói, bắt đầu từ đâu và nói bao nhiêu cho đủ, cho thỏa bấy nhiêu năm thiết tha mặn nồng gắn bó cùng nhau.
(2) Đoạn 2 (Mình đi có nhớ những ngày.. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa)
Đoạn thơ là lời người ở lại nhắn nhủ với người đi đừng quên "chiến khu" – vùng đất gắn liền với những gian lao trong kháng chiến và lòng căm thù giặc nhưng cũng rất hào hùng trong chiến đấu: Mình đi, có nhớ những ngày.. Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Những dòng thơ gợi nhắc kỉ niệm đã lí giải vì sao nhà thơ gọi mười lăm năm ấy bằng từ thiết tha mặn nồng đầy nghĩa tình. Bởi đó là thời gian dệt lên từ tình yêu thương, từ gian khổ thiếu thốn, từ sự chung sức chung lòng. Ở đó ta – mình cùng chia sẻ những khó khăn, vất vả của cảnh mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, cùng dằn lòng với miếng cơm chấm muối, chung một mối thù nặng vai, cùng trải qua những buổi hắt hiu lau xám để gánh cuộc kháng chiến trên vai. Từ thuở khởi đầu chiến đấu, bên ta đã có mình, hỏi sao không chất chứa tình cảm thiết tha mặn nồng lưu luyến?
Đặt trong cấu trúc cân đối, hài hòa của những tiểu đối trong các câu thơ tám chữ, ấn tượng để lại với người đọc là cái sắt son bền chặt thuỷ chung của tình cảm con người. Từ miếng cơm chấm muối mà nung nấu tâm can mối thù nặng vai thêm sôi sục. Từ hắt hiu lau xám, mưa nguồn, suối lũ, mây mù mà ngời lên đậm đà lòng son vẹn tròn, chung thuỷ. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình. Mười lăm năm ấy cũng là bao nhiêu kỉ niệm kháng chiến.
Theo dòng hồi tưởng, người ở lại gợi nhắc cho chúng ta trở về thuở ban đầu gây dựng nền móng cách mạng cho đến khi lớn mạnh trưởng thành. Và đến giờ, nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc vẫn sắt son và mãi khắc ghi trong dạ: Mình về, rừng núi nhớ ai.. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Những khi ấy, mình – ta từng chung niềm vui kháng chiến sôi sục trong những ngày kháng Nhật, phong trào Việt Minh và mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào nơi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, tiền thân của quân đội Việt Nam lớn mạnh sau này, nơi Quốc dân Đại hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn trước lúc chia xa. Đó là nỗi nhớ khôn khuây, ngơ ngẩn: Mình về, rừng núi nhớ ai – Trám bùi để rụng, măng mai để già.. Đó là nỗi niềm bồi hồi dâng lên khi kỉ niệm dào dạt ùa về.
Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ rừng núi nhớ ai.. trám để rụng, măng để già, điệp từ mình về, mình đi, có nhớ, còn nhớ, nhịp câu 2/4 – 4/4 đều đặn.. gợi lên hình ảnh một người đang bâng khuâng sững sờ với cảm giác hụt hẫng của chia li, dè chừng sự lãng quên nên tha thiết nhắc nhở người về bằng những hoài niệm ân nghĩa nhất, nguồn cội sâu rộng nhất, sâu trong tình người, rộng trong thời gian, không gian. Đây là tình cảm những con người cách mạng trong không gian, thời gian của cách mạng.
(3) Đoạn 3 (Nhớ gì như nhớ người yêu.. Chày đêm nện cối đều đều suối xa)
Hiện theo mỗi điệp khúc nhớ là hình ảnh con người và thiên nhiên hòa quyện trong nhau. Khác với đoạn thơ trước, cảnh Việt Bắc ở đây hiện ra rất thơ mộng hiền hòa. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiều lấp ló lưng nương: Nhớ gì như nhớ người yêu.. nắng chiều lưng nương
+ Những bản làng bồng bềnh thực hư trong sương khói:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
+ Những rừng nứa, bờ tre, những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê đầy vơi trong nhung nhớ:
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Mỗi cảnh vật là một nét nhớ, nét thương thân thuộc vì gợi nhắc đến con người Việt Bắc. Đó là những con người từng chia bùi sẻ ngọt cùng người cách mạng:
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Các từ ngữ thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân cá nước thêm ấm áp. Câu thơ làm ta nhớ đến những vần thơ sáng ngời tình đồng chí của Chính Hữu: Súng bên súng đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ (Đồng Chí).
Đó là những con người tảo tần lam lũ, chịu thương chịu khó:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Trên những miền núi quê ta, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh những người mẹ vừa làm nương rẫy vừa địu con trên lưng thật cảm động: Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi – Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng "(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm. Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc" Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội ".. Người mẹ được khắc họa trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật nhất đã từng xuất hiện như thế này trong nhiều trang thơ của Tố Hữu và bao giờ cũng gây một mối giao cảm mãnh liệt.
Đó là những con người từng cùng vui niềm vui của lớp học xóa mù chữ, diệt giặc dốt và những giờ liên hoan tưng bừng với ngọn đuốc sáng:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sang những giờ liên hoan
Đó còn là những người lạc quan yêu đời gắn bó cùng kháng chiến và cuộc sống thanh bình tươi đẹp Việt Bắc:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Bức tranh không chỉ có đường nét, màu sắc, ánh sáng mà còn gợi tới âm thanh: Tiếng i tờ vỡ lòng ngượng nghịu, tiếng hát ca vang núi đèo, tiếng mõ rừng chiều thân quen, tiếng chày đêm nện cối điểm nhịp đều đều nơi suối xa.. Những âm thanh ấy đã thổi cái hồn riêng vào bức tranh thơ.
Bên cạnh việc sử dụng điệp từ nhớ, trong cả đoạn thơ tác giả còn sử dụng thành công nhiều biện pháp nghệ thuật khác. Đó là nhịp điệu thơ mượt mà, êm ái, như ru người đọc vào những kỉ niệm bang khuâng. Đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Đó còn là những cách diễn tả đậm màu sắc trữ tình phù hợp với cấu tứ như cuộc chia tay của đôi bạn tình đã từng gắn bó nay phải tạm chia xa. Việt Bắc đã trở thành người yêu (Nhớ gì như nhớ người yêu), thành người thương (Sớm khuya bếp lửa người thương đi về) trong nỗi nhớ ấy.
Đoạn thơ trên là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Tuy nhiên, không phải nhà thơ chỉ dừng lại ở việc tả cảnh tả người, mà qua mỗi hình ảnh thiên nhiên, mỗi hình ảnh về con người đều chất chứa một nỗi niềm nhung nhớ của người đi. Bức tranh hiện ra với nhiều chi tiết thật cụ thể, thật quen thuộc, thật cảm động. Điều đó thể hiện nghĩa tình thuỷ chung của người đi rất sâu đậm với chiến khu Việt Bắc.
(4) Đoạn 4 (Ta về, mình có nhớ ta.. Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung)
Trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc, người đọc dễ dàng bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hiện lên thật sinh động. Đặc biệt tác giả đã dụng tâm khắc họa một bức tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trọn vẹn trong khổ thơ cân đối hài hòa: Ta về, mình có nhớ ta.. ân tình thuỷ chung.
Hai câu đầu khái quát chung về nỗi nhớ, cũng là hé mở cách tạo" bố cục "cho bức tranh: Một nét vẽ hoa (những hoa) – thiên nhiên và một nét vẽ con người (cùng người), cứ thế lần lượt hiện ra: Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Những câu tiếp theo tập trung vào miêu tả thời gian trôi đều đặn qua bốn mùa cùng những tín hiệu riêng của cảnh và người:
Mùa đông ấm nóng, tươi tắn trong gam màu nóng của những bông hoa chuối rừng đỏ tươi thắp lửa thấp thoáng bên tàu lá. Cả khu rừng màu xanh như được điểm thêm sắc đỏ cùng" nắng ánh "như tạo một không gian khí trời mùa đông" không lạnh lẽo ". Trong khung cảnh đó, nhà thơ vẽ một nét chấm phá về con người, đó là con người đi rừng lao động thu hái sản vật núi rừng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Mùa xuân Việt Bắc bạt ngàn màu trắng của hoa mơ. Màu trắng của hoa mơ như gợi sắc xuân núi rừng Việt Bắc một nét mơn mởn tươi trong và tinh khiết. Hòa cùng sắc xuân ấy là cảnh người dân Việt Bắc chuốt giang đan nón. Cuộc sống mùa xuân như sôi động hơn cũng chính bởi cảnh lao động của những thôn dân nơi đây: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Hè sang, tiếng ve kêu báo tín hiệu của mùa và rừng phách ào ạt đổ vàng. Đó cũng chính là lúc" cô em gái "đi hái măng" một mình ". Mùa nào thức nấy, thiên nhiên đã cung cấp nhiều" sản vật "núi rừng cho bữa ăn hằng ngày của người dân nơi đây. Cảnh" cô em gái "măng cũng thường xuất hiện nơi núi rừng Việt Bắc và đã để lại ấn tượng lâu dài trong lòng người đi: Ve kêu rừng phách đổ vàng / Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Mùa thu thanh bình trong ánh trăng hạnh phúc. Trong ánh trăng huyền ảo lung linh, giọng ai cất lên tiếng hát về mối ân tình thuỷ chung càng làm cho bức tranh Việt Bắc thêm thơ mộng và trữ tình biết bao: Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn thơ trên có thể xem là tuyệt bút khi viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Chỉ qua một vài nét chấm phá, cảnh núi rừng Việt Bắc xuất hiện thật sinh động: Mỗi mùa một nét riêng, thiên nhiên hiện lên đa dạng theo thời gian, không gian, có nắng sớm, nắng chiều, trăng khuya và các mùa..
Đặc biệt, bức tranh Việt Bắc càng hữu tình, sinh động hơn khi có sự gắn bó với con người qua cách miêu tả tài tình: Một câu tả cảnh đi liền là một câu tả người. Âm hưởng bao trùm đoạn thơ là ngọt ngào, thiết tha sâu lắng như ru vỗ con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ niệm không quên.
(5) Đoạn 5 (Nhớ khi giặc đến giặc lùng.. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)
Ta dễ dàng cảm nhận được đoạn thơ trên khắc họa cuộc sống chiến đấu nơi Việt Bắc mang âm điệu mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi, hào hùng. Hình ảnh thơ hoành tráng, mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng" đất nước đứng lên "như sống dậy trong mỗi câu thơ.
Đó là hình tượng người dân Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến, bộ đội, dân công, rừng cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.
Cuộc kháng chiến thần thánh ngày một trưởng thành lớn mạnh. Từ lúc giặc đến giặc lùng, rừng và người Việt Bắc che chở, bao bọc nhau, đến chỗ rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây là một bước phát triển của kháng chiến: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Sự lớn mạnh đó là nhờ vào sự chung lòng đoàn kết chiến đấu của mọi người dân:
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Để rồi từ đó, chúng ta có những chiến thắng đầu tiên nức lòng nhân dân, bộ đội gắn với các địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà..
Ai về ai có nhớ không?
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà..
Đó là bức tranh Việt Bắc ra trận với khí thế sôi nổi, hào hùng. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi đến những ngày quyết định cuối cùng. Cả một đội quân nhân dân trùng trùng ra trận được khắc họa hoành tráng trong mỗi câu thơ: Những đường Việt Bắc của taĐèn pha bật sang như ngày mai lên.
Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những nẻo đường cách mạng của dân tộc đã đến ngày rộng trải thênh thang. Con đường là hình ảnh quen thuộc trong thơ Tố Hữu gắn với ý nghĩa biểu tượng về đường cách mạng. Tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế dũng mãnh của những người ra trận bằng biện pháp so sánh cường điệu và từ láy gợi thanh:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những chiến sĩ trong một cuộc ra quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.
Trong cuộc ra quân ấy, hình ảnh đoàn quân rất đẹp.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Đẹp trong đội ngũ điệp điệp, trùng trùng như một sức mạnh vô tận, đẹp trong ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan gợi nhớ hình ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu và hình ảnh súng ngửi trời trong thơ Quang Dũng. Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân quen với mũ nan của anh, lại như rực sáng lí tưởng trên đầu mũi súng của người lính. Một hình ảnh thơ vừa thực, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.
Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ tuyền tiến. Khí thế mạnh mẽ của đội quân nhân dân được tác giả khắc họa bằng lối thậm xưng, phóng đại:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Hình ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh đuốc đỏ rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng! Còn bước chân nát đá là bước chân của những người đạp bằng mọi chông gai để đi tới, hình ảnh được lấy từ ý ca dao: Trông cho chân cứng đá mềm..
Hai câu tiếp theo là hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn sương đêm dày thăm thẳm:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sang như ngày mai lên.
Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Từ những đêm Việt Bắc, những đường Việt Bắc đó, một cảm hứng lãng mạn bay bổng về tương lai tươi sáng của dân tộc chói lòa qua từng câu thơ đầy hào khí.
Và đây là một" bản đồ vui"tỏa rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng:
Tin vui chiến thắng trăm miền
* * *..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Nhịp điệu thơ dồn dập tươi vui, náo nức phấn khởi. Mỗi một địa danh là một nốt nhạc vui rộn ràng trong bản hùng ca chiến thắng.
Các địa danh không chỉ có ở Việt Bắc mà còn trải dọc theo trăm miền đất nước: Từ Nam Bộ, Tây Nguyên cho tới Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền bên cạnh nhau gắn với các tin vui chiến thắng dường như cho thấy tốc độ thần kì của những thắng lợi đó.
Những từ ngữ vui về, vui từ, vui lên mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi miền vui. Từ Việt Bắc niềm vui tỏa đi. Và từ khắp nơi, tin vui bay lại Việt Bắc.
* KẾT LUẬN
Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian – tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
Việt Bắc (hoặc đoạn thơ trên) tiêu biểu cho hồn thơ và thể tài thơ trữ tình – chính trị mang đậm tính sử thi, cảm hứng lãng mạng và đậm đà tính dân tộc của Tố Hữu.
(Nguồn: https://dembuon.vn/threads/on-tap-bai-tho-viet-bac-to-huu.93706/)
Những bài viết hay nhất 2
1. Mở bài:
- Dẫn dắt.
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc
2. Thân bài
a. (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi
* 4 câu thơ đầu: lời hỏi của người ở lại.
- Cách xưng hô mình – ta:
+ Gợi nghĩa tình thân thiết, gắn bó.
+ Là cách gọi quen thuộc trong ca dao dân ca.
=> Tạo không khí trữ tình cảm xúc.
- “Mười lăm năm”: tính từ thời kháng Nhật (khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940) đến khi những người kháng chiến trở về Thủ đô (tháng 10 – 1954)
- Câu hỏi tu từ: Kỉ niệm thời gian gắn bó lâu dài, keo sơn, bền chặt.
- Điệp từ “nhớ”: nhấn mạnh nỗi nhớ sâu sắc, thường trực, da diết.
- Hình ảnh: cây – núi, sông – nguồn gợi mối qua hệ khăng khít, thủy chung, ân tình giữa kháng chiến và Việt Bắc.
=> Người ở lại thiết tha, luyến tiếc, khơi gợi trong lòng người ra đi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.
* 4 câu tiếp: lời đáp của người ra đi.
- Từ láy: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn
=> sự day dứt, lưu luyến, bối rối trong tâm trạng và hành động của người ra đi.
- Hình ảnh hoán dụ: “áo chàm” => gợi hình ảnh bình dị, thân thương của những người dân Việt Bắc.
- Hành động: cầm tay => sự luyến tiếc và nghĩa tình keo sơn gắn bó giữa cách mạng và Việt Bắc, gợi nhớ những cuộc chia tay trong văn học trung đại (nhưng đây là cuộc chia tay trong niềm vui chiến thắng).
=> Tiếng lòng người về xuôi bâng khuâng lưu luyến.
* 12 câu tiếp “Mình đi… cây đa”: Tác giả gợi những kỉ niệm về Việt Bắc trong những năm kháng chiến.
- Hình ảnh: suối lũ, mây mù, miếng cơm chấm muối => Đây là những hình ảnh rất thực gợi được sự gian khổ của cuộc kháng chiến, vừa cụ thể hoá mối thù của cách mạng đối với thực dân Pháp.
- Chi tiết “Trám bùi….để già” => diễn tả cảm giác trống vắng gợi nhớ quá khứ sâu nặng. Tác giả mượn cái thừa để nói cái thiếu.
- “Hắt hiu…lòng son” => phép đối, đảo ngữ gợi nhớ đến mái tranh nghèo. Họ là những người nghèo nhưng giàu tình nghĩa, son sắt, thuỷ chung với cách mạng.
- 6 câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại => câu hỏi đau đáu, khơi gợi, nhắc nhớ mọi người hãy luôn nhớ về Việt Bắc.
- Địa danh: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào => gắn liền với Việt Bắc, là hình ảnh tiêu biểu của thủ đô kháng chiến.
- Phép điệp: mình đi…, mình về…, nhớ… => lời nhắn gọi tha thiết, nhắc nhớ những kỉ niệm về một thời ở Việt Bắc.
- “Mình đi, mình có nhớ mình" => ý thơ đa nghĩa một cách thú vị. Cả kẻ ở, người đi đều gói gọn trong chữ “mình” tha thiết. Mình là một mà cũng là hai, là hai nhưng cũng là một bởi sự gắn kết của cách mạng, của kháng chiến.
=> Chân dung một Việt Bắc gian nan mà nghĩa tình, thơ mộng, rất đối hào hùng trong nỗi nhớ của người ra đi.
b. (70 câu sau): Lời của người ra đi
* 4 câu đầu “Ta với… bấy nhiêu…”: Khẳng định tình nghĩa thủy chung son sắt.
- Đại từ mình – ta: được sử dụng linh hoạt và tạo sự hòa quyện, gắn bó máu thịt;
- Giọng điệu: tha thiết như một lời thề thủy chung son sắt.
- Từ láy: mặn mà, đinh ninh => Khẳng định nghĩa tình đậm đà, bền chặt, trước sau như một của cách mạng đối với Việt Bắc.
- So sánh: bao nhiêu … bấy nhiêu => gợi tình cảm bao la, chan chứa giữa cách mạng và Việt Bắc.
* 28 câu tiếp “Nhớ gì… thuỷ chung…”: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng và cuộc sống con người ở Việt Bắc.
- 18 câu tiếp “Nhớ gì… suối xa…”: Nỗi nhớ về cuộc sống ở Việt Bắc.
+ Biện pháp so sánh: “nhớ… người yêu” => So sánh nỗi nhớ Việt Bắc với nỗi nhớ người yêu, sắc thái cao nhất của nỗi nhớ.
+ Phép tiểu đối:
> “Trăng lên đầu núi / nắng chiều lưng nương” => Nỗi nhớ từ đêm sang ngày, bao trùm cả không gian lẫn thời gian.
> “Bát cơm sẻ nửa / chăn sui đắp cùng” => Hình ảnh cảm động cho thấy sự san sẻ khó khăn gian khổ, chia sớt ngọt bùi, đắng cay giữa người dân Việt Bắc và những người cách mạng.
+ Phép điệp: nhớ, nhớ từng…, nhớ sao…=> Nhấn mạnh nỗi nhớ da diết, sâu sắc.
+ Hình ảnh: người thương đi về, người mẹ nắng cháy lưng,… => Những hình ảnh thân thương, cảm động về con người Việt Bắc.
+ Những kỉ niệm: đắng cay ngọt bùi, bát cơm sẻ nửa, những giờ liên hoan,…
=> Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân gắn bó như trong một gia đình.
=> Con người và cuộc sống Việt Bắc: khổ cực, lam lũ mà thủy chung, son sắt.
=> Thiên nhiên, núi rừng, cuộc sống và con người ở Việt Bắc luôn in đậm trong tâm trí những người về xuôi tình cảm chân thành, tha thiết của người cán bộ kháng chiến.
- 10 câu sau “Ta về… thuỷ chung”: Nỗi nhớ về bức tranh tứ bình của Việt Bắc.
+ 2 câu đầu: nỗi nhớ chung và cảm xúc chủ đạo cho cả khổ thơ;
+ 8 câu sau: bức tranh tứ bình của Việt Bắc:
> Mùa đông:
. Hình ảnh: hoa chuối đỏ tươi + người lao động trên đèo cao => bình dị, khoẻ khoắn;
. Màu sắc: xanh + đỏ + “nắng ánh” => màu sắc ấm áp.
> Mùa xuân:
. Hình ảnh: mơ nở trắng rừng + người đan nón => đẹp, nên thơ.
. Màu sắc: trắng + trắng => tinh khiết, thanh nhã.
. Âm thanh: hiệp vần “ơ” (mơ – nở), “ưng” (rừng – từng) cảm nhận tinh tế, âm thanh của rừng mơ đồng loạt nở hoa.
> Mùa hạ:
. Hình ảnh: rừng phách đổ vàng + em gái hái măng
. Màu sắc: vàng
. Âm thanh: tiếng ve
=> Vẻ đẹp đặc trưng rộn rã, rực rỡ, đặc trưng của mùa hè.
> Mùa thu:
. Hình ảnh: ánh trăng
. Âm thanh: tiếng hát ân tình thuỷ chung
=> Vẻ đẹp thanh bình, hiền hoà.
- Nghệ thuật:
+ Phép điệp: ta về, ta nhớ, nhớ,…
+ Đại từ xưng hô: mình – ta…
+ Nhịp điệu đều đặn, cân xứng, nhịp nhàng…
+ Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, lời thơ giàu nhạc điệu,…
=> Mỗi mùa mỗi cảnh, đều mang vẻ đẹp riêng trong vẻ đẹp chung: đó là sự hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, giữa người và cảnh, cảnh và người cùng làm cho nhau thêm đẹp, làm cho bức tranh thêm sinh động.
=> Thiên nhiên cảnh vật quen thuộc, bình dị, gần gũi nhưng rất thơ mộng, trữ tình và nỗi nhớ sâu sắc của người cán bộ cách mạng về Việt Bắc.
* 22 câu tiếp “Nhớ khi… núi Hồng”: Nhớ cuộc kháng chiến anh hùng ở Việt Bắc.
- 10 câu đầu “Nhớ khi… Nhị Hà…”: Thiên nhiên cùng con người sát cánh đánh giặc.
+ Phép điệp: nhớ… => gắn với những kỉ niệm trong những ngày Việt Bắc kề vai sát cánh cùng với CM trong chiến đấu.
+ Biện pháp nhân hóa: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”,… biến thiên nhiên thành một lực lượng kháng chiến, thể hiện tình đoàn kết đặc biệt giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc đối với Cách mạng, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Rừng mang tính chất của con người VN quả cảm và biết phân biệt địch – ta,… Tác giả nhìn thiên nhiên xuất phát từ lòng yêu nước gắn với yêu Cách mạng.
+ Câu hỏi tu từ: hỏi để khẳng định nỗi nhớ thường trực, sâu sắc về những địa danh gắn liền với Việt Bắc.
+ Từ chỉ địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng,… => thân thuộc, gắn liền với Việt Bắc.
- 12 câu sau “Những đường… núi Hồng”: Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong những ngày ra quân sôi động làm nên chiến thắng.
+ 8 câu đầu: khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc:
> Các động từ mạnh: rầm rập, rung, bật => tạo thành những chuyển rung dữ dội, thể hiện sức mạnh vô địch của cuộc kháng chiến.
> Các từ láy: điệp điệp, trùng trùng => khí thế mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản nổi.
> Biện pháp cường điệu: Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay => sức mạnh của thời đại, của ý chí tiêu diệt giặc, của tinh thần đoàn kết có thể làm nên những điều tưởng chừng không thể.
> Nhịp điệu: dồn dập, mạnh mẽ như những bước hành quân của quân dân Việt Bắc, thể hiện khí thế ra trận của cả một dân tộc trong trận chiến quyết định với kẻ thù.
+ 4 câu sau: khí thế chiến thắng ở các chiến trường khác:
> Phép điệp: “vui”, “vui + lên/về…”
> Liệt kê: các địa danh (…)
> Giọng điệu thơ: hồ hởi, vui tươi
=> Niềm vui to lớn, rộng khắp của cuộc kháng chiến.
=> Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến, trở thành điểm đến của tất cả các cánh quân, của ý chí Việt Nam để tạo nên một cuộc đụng đầu lịch sử, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
* 16 câu cuối: Nỗi nhớ Việt Bắc, nhớ cuộc kháng chiến, nhớ quê hương cách mạng của người VN.
- Câu hỏi tu từ: khơi gợi tình cảm thiêng liêng về Việt Bắc.
- Các hình ảnh: ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng rực rỡ, cụ Hồ sáng soi, Trung ương, Chính phủ, mái đình, cây đa,…=> những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả. Đó là những hình ảnh biểu tượng của cách mạng, là tương lai của dân tộc.
- Phép điệp: Ở đâu… Nhìn lên…, Ở đâu… Trông về…=> nhấn mạnh: Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn của sự sống.
- Biện pháp đối lập: u ám >< sáng soi => đề cao vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bác chính là chỗ dựa tinh thần tươi sáng nhất cho cách mạng và nhân dân Việt Nam.
- Cách xưng hô mình – ta…
(Nguồn: https://luyentap247.com/tong-on/phan-tich-bai-tho-viet-bac/)
Những bài viết hay nhất 3
Phân Tích Bài Thơ: "Việt bắc" - Tố Hữu
Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cũng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.
Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa.
Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Việt Bắc lại hỏi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.
Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.
Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dại với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
“Mình đi, mình có nhớ mình”
Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:
“Mình đi, mình lại nhớ mình”
(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)
Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.
Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.
Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.
Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội. “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đòan xe vận tải tấp nập sôi động:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, lừ niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.
Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:
“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)
(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)
Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.
Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân(đặc biệt là hia đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng sưốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.
(Nguồn: https://sites.google.com/site/giasumonvantaihanoi/luyen-thi-dai-hoc-mon-van-qua-video/on-thi-dhai-hoc-mon-van---bai-tho-viet-bac-cua-to-huu)

(Nguồn: https://hoctot.net.vn/phan-tich-bai-tho-viet-bac)